Chạy Ngược Đường Độc Lập.
Ngày 17 tháng 8 vừa qua, tại Bộ Giáo dục - Đào tạo Tổng bí
thư đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng tuyên bố cần chấm dứt thành tích ảo trong
giáo dục. Ông cho biết: "Chúng ta đã 3 lần cải cách giáo dục, vì sao
lần này không đặt vấn đề cải cách nữa mà là 'đổi mới căn bản, toàn diện'?
Phải chăng phải đổi mới từ tư duy cho đến mô hình, …” , rồi ông tự
hỏi: “Việt Nam đã có triết lý về
giáo dục chưa, hay là người học ở
Anh về bảo phải như thế này, người học ở Mỹ bảo thế kia, nên tiếp thu kinh
nghiệm gì của từng nước, trên cơ sở nào". Lời thú nhận lại rơi vào
đúng ngày 67 năm trước Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền.
Bài viết này xem lại triết lý và mục tiêu của giáo dục tại
miền Nam tự do, để từ đó chúng ta có thể nhận ra nguyên nhân và nhận thức được
thực trạng hầu có thể tìm ra con đường xây dựng lại Việt Nam.
Triết Lý Giáo Dục của Miền Nam Tự Do
Ngay khi thành lập, chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa đã hết sức
quan tâm đến việc xây dựng một nền giáo dục cho miền Nam tự do. Năm 1958, một
Đại hội Giáo dục quy tụ phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện
của quân đội, chính quyền, các tổ chức quần chúng và đại diện ngành văn hóa và
giáo dục... được tổ chức tại Sài Gòn nhằm đề ra triết lý giáo dục cho miền Nam.
Đại hội đồng thuận lấy ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc và khai phóng làm căn
bản cho nền giáo dục miền Nam.
Đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa, vào năm 1964, một Đại Hội khác
cũng được tổ chức tại Sài Gòn nhằm xem xét lại triết lý và mục tiêu giáo dục.
Đại Hội duyệt xét và tiếp tục nhìn nhận ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc và khai
phóng là căn bản cho triết lý giáo dục. Ba nguyên tắc này được ghi nhận trong
các văn bản, tài liệu ấn hành và đưa vào Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa (Hiến pháp
1967).
1. Triết lý nhân bản chủ trương lấy con người làm gốc, lấy
cuộc sống của con người làm căn bản, không xem con người như một phương tiện
hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng hay tổ chức nào.
Triết lý nhân bản chấp nhận sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp
nhận việc sử dụng khác biệt đó để đánh giá con người, cũng không chấp nhận kỳ
thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc... mọi người đều
có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội bình đẳng về giáo
dục.
2. Triết Lý dân tộc chủ trương tôn trọng giá trị truyền
thống của dân tộc. Vai trò của giáo dục là bảo tồn và phát huy được những tinh
hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn
hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi
hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
3. Triết lý khai phóng chủ trương lấy tinh thần dân tộc làm
gốc nhưng mở rộng tiếp nhận văn hóa văn minh nhân lọai. Vai trò của giáo dục
khai phóng là mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến
trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa
nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội
tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
Nguyên Tắc Độc Lập với Chính Trị
Theo nguyên tắc này chính quyền không trực tiếp can dự vào
hoạt động giảng dạy, soạn thảo chương trình hay điều hành của các cơ sở giáo
dục. Các công việc chuyên môn nói trên là của những người làm giáo dục.
Các chức vụ bộ trưởng hay tổng trưởng giáo dục có thể là do
các chính trị gia và một số nhỏ chức vụ mang tính chất chính trị nhằm thi hành
chính sách của chính phủ như đổng lý văn phòng, bí thư, v.v... còn các chức vụ
khác trong Bộ Giáo dục đều do những nhà giáo dục chuyên nghiệp đảm trách. Ngay
cả những chức vụ mang tính chất chính trị cũng thường được giao cho những người
có chuyên môn về giáo dục. Những người làm trong ngành giáo dục đều là những
người am hiểu công việc, có kinh nghiệm, giàu tâm huyết, và xem chính trị
chỉ là nhất thời, tương lai của dân tộc mới quan trọng.
Riêng trong lĩnh vực giáo dục đại học, Điều 10 của Hiến
pháp Việt Nam Cộng hòa (1967) nêu rõ: “Nền giáo dục đại học được tự trị”. Các
hội đồng ở cấp viện đại học và cấp trường đại học (hay phân khoa) có quyền thảo
luận và quyết định các vấn đề học vụ và điều hành mà không phải trình báo hay
xin chỉ thị từ bất cứ ai. Nói chung nền giáo dục miền Nam là một nền giáo dục
tân tiến và tự do.
Mục Tiêu Giáo Dục Miền Nam Tự Do
Từ triết lý nhân bản, dân tộc và
khai phóng, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đề ra ba mục tiêu chính cho giáo dục
như sau:
1. Phát triển toàn diện mỗi cá
nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo
dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của
mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý.
Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học
sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn. Không che
giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo
một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
2. Phát triển tinh thần quốc gia
dân tộc ở mỗi học sinh. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết
hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh
hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết,
tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học
sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận
biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia,
những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền
thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần
tự tin, tự lực, và tự lập.
3. Phát triển tinh thần dân chủ và
tinh thần khoa học. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những
nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể;
giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật;
giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng
tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.
Những mục tiêu này được đề ra là để
nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở
nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội,
và nhân loại ?
Phần triết lý và mục tiêu bên trên
được viết dựa trên tài liệu từ WIKIPEDIA, bạn đọc muốn tìm hiểu chi tiết khác
như mô hình cơ sở, tổ chức, quản lý, đánh giá … xin xem trên trang WIKIPEDIA trong đề tài “Giáo Dục Việt Nam
Cộng Hòa”.
Kết quả 20 năm miền Nam
Tự Do
Mặc dầu Việt Nam Cộng Hòa chỉ tồn
tại 21 năm trong chiến tranh và giặc dã, miền Nam đã đào tạo một tầng lớp trí thức
chuyên viên và xây dựng nền tảng giáo dục căn bản cho một thế hệ hậu duệ, nhiều
người đã hết sức thành đạt trên trường quốc tế.
Khi thấy một thiểu số học sinh,
sinh viên miền Nam thiên tả hay theo cộng sản, có
người cho rằng nền giáo dục của miền Nam mang khuyết điểm là không giáo dục
về chính trị. Thực ra giáo dục chính trị là đi ngược với triết lý và mục tiêu
mà miền Nam đã được đề ra. Thay vào đó học
sinh miền Nam ngay từ bậc tiểu học đã được học môn Công Dân Giáo Dục để nắm
vững bổn phận và trách nhiệm của mình và vì thế sau 37 năm miền Nam lọt vào tay
cộng sản đa số dân miền Nam vẫn kiên trì đấu tranh cho một Việt Nam tự do.
Chính trị chỉ là nhất thời, tương
lai của dân tộc mới quan trọng miền Nam đào tạo con người không phải để
phục vụ Việt Nam Cộng Hòa mà để phục vụ cho dân tộc cho nhân lọai.
Độc Lập Tư Tưởng
Trở lại mùa Thu năm 1945, cao điểm
là ngày 2-9-1945, khi Hồ chí Minh đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập với lời mở đầu như
sau: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên
ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ … Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Lời mở đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc
Lập cho thấy ước vọng của người Việt trong thời điểm 1945 là độc lập và tự do.
Nhưng thay vì như người quốc gia mở Đại Hội quần chúng nhằm xây dựng triết lý
giáo dục, triết lý phát triển cho Việt Nam . Ngay khi nắm được chính quyền Hồ
chí Minh và những người cộng sản tước đọat mọi quyền tự do và bình đẳng của
người Việt, để áp đặt những tư tưởng Mác, Lênin, Stalin và Mao Trạch Đông được
cộng sản vay mượn từ Nga Tàu lên dân tộc Việt Nam .
Ngày nay các tư tưởng nói trên đã
hòan tòan phá sản. Người Nga đã từ chối tư tưởng của Mác, của Lênin, của
Stalin. Người Tàu cũng không còn lấy tư tưởng của ông Mao làm tư tưởng chỉ đạo.
Thế giới còn lên án chủ nghĩa cộng sản là diệt chủng chống lại con người. Tiếc
thay đảng Cộng sản trên lý thuyết vẫn cố bám vào những tư tưởng đã bị nhân lọai
lên án đào thải. Nói theo ông Mai Thái Lĩnh là những người cộng sản Việt Nam vốn mang bản chất của nô lệ về
tư tưởng. Nô lệ tư tưởng là nguyên nhân mọi khủng hỏang đã và đang liên tục
xẩy ra trong xã hội Việt Nam .
Trở lại với câu hỏi đầu bài được
Nguyễn Phú Trọng nêu ra "Việt Nam đã có triết lý về
giáo dục chưa, hay là người học ở Anh về bảo phải như thế này, người học ở
Mỹ bảo thế kia, nên tiếp thu kinh nghiệm gì của từng nước, trên cơ sở nào". Ông Trọng đã nhận ra được
thực tế những người mà đảng của ông gởi sang Anh sang M ỹ đào tạo thiếu khả năng tự đánh
giá mớ kiến thức học được mang về. Lỗi không phải ở họ mà lỗi là ở chính cái
thể chế mà ông đang cầm quyền, thể chế không dựa trên tinh thần nhân bản, dân
tộc và khai phóng, mà lại chọn làm nô lệ cho ngọai bang.
Nhắc đến thể chế là nói về những
người đang quản lý hay cai trị một quốc gia. Khi một người nô lệ tư tưởng họ
làm sao để biết mình là ai ? thì làm sao họ có thể tự phát triển để giúp ích
cho cá nhân mình, cho gia đình, cho quốc gia, cho xã hội, và cho nhân loại ? Có
chăng họ chỉ là những nô lệ trong một guồng máy lỗi thời đang bị đào thải.
Khi con người đã nô lệ về tư tưởng
thì họ chỉ hành xử bằng quyền lực và cho quyền lợi nhất thời. Thể chế Cộng sản
tại Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao của nó, khi
tiêu chuẩn đánh giá dựa trên các thứ tự như sau: hậu duệ, tiền tệ, quan hệ rồi
mới đến trí tuệ.
Hậu duệ là con ông cháu cha, là cha truyền con nối. Tiền tệ
là buôn quan bán chức. Quan hệ là đảng phái bè cánh. Còn trí tuệ tiêu biểu cho
độc lập cá nhân thì chỉ là thứ yếu. Có hiểu biết và tôn trọng độc lập thì cá
nhân mới biết trân quý nền độc lập dân tộc. Chả thế tầng lớp cầm quyền ngày nay
chỉ tòan một bọn buôn dân bán nước, sẵn sàng theo Nga, theo Tàu, theo Mỹ nếu
cần.
Trong bài “Hoa K ỳ Đồng Minh Việt Nam” người viết đã
phân tích về sự thay đổi chiến lược, chiến thuật và xác suất chiến tranh giữa
Trung cộng và Hoa K ỳ cùng các nước đồng minh. Người
viết lập luận chính phủ Hoa K ỳ luôn xem dân tộc Việt Nam như một đồng minh trong chiến đấu
để bảo vệ và xây dựng tự do. Người viết cũng cho rằng Hoa kỳ luôn tạo cơ hội để
nhà cầm quyền cộng sản thực thi dân chủ, và dân chủ chính là con đường cho
những người cầm quyền cộng sản quay về với dân tộc thay vì tiếp tục mang thân
nô lệ cho Tàu. Và bằng mọi cách Hoa K ỳ sẽ giải phóng các quốc gia còn
đang bị cộng sản chiếm đóng trong đó có Trung cộng và Việt Nam . Vì thế việc quay về với dân tộc
chính là con đường an tòan và hòa bình cho giới cầm quyền cộng sản.
Khi bài viết được phổ biến có lập
luận phản bác cho rằng Hoa K ỳ không có bạn, không có đồng minh
mà chỉ có tay sai. Lập luận này cũng đựơc cơ quan truyền thông của đảng Cộng
sản rả rích tuyên truyền. Lập luận này đúng trong chiến thuật. Người Mỹ có tinh
thần thực dụng vì thế khi cần những người sẵn sàng làm nô lệ từ tư tưởng đến
thể xác như giới cầm quyền cộng sản thì người Mỹ sẽ ban cho chút ít quyền lợi
thu dụng làm tay sai nhất thời.
Nhưng dựa trên tinh thần thực dụng
người Mỹ luôn cổ vũ cho sự phát triển độc lập tự do. Khi cá nhân xây dựng được
hai yếu tố độc lập tự do cá nhân sẽ đóng góp được nhiều hơn cho nhân quần xã
hội. Trong mối tương quan người Mỹ luôn chủ trương và cổ vũ cho các phương thức
tạo lợi ích cho cả hai bên. Khi một quốc gia độc lập tự do, quốc gia này sẽ
đóng góp nhiều hơn cho nền hòa bình và an sinh nhân lọai trong đó có cả Hoa K ỳ. Từ đó Hoa K ỳ chỉ đồng minh với các quốc gia
chuộng độc lập yêu tự do.
Kết luận.
Từ ngày 2 tháng 9 năm 1945 đảng Cộng sản đã cưỡng bách dân
tộc Việt Nam vào con đường nô lệ tư tưởng ngọai bang. Con đường này đã thêu dệt
những thành tích ảo trong giáo dục như Nguyễn Phú Trọng tự thú ở đầu bài. Con
đường này cũng tạo ra những chiến thắng ảo, những thành tích ảo về dân giàu nước mạnh xã hội văn minh.
Thực tế con đường này đi ngược với con đường tiến hóa của
nhân lọai, chỉ đưa Việt Nam vào khủng hỏang và chiến tranh. Cũng chính con
đường này đang đưa đến nước mất, nhà tan. Đã đến lúc người Việt phải sẵn sàng
đứng lên, tự giải phóng giành lại độc lập tự do để tự mình xây dựng một xã hội
Việt Nam nhân bản dân tộc và khai phóng.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
24/8/2012
Tài liệu tham khảo
WIKIPEDIA “Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa”
Nguyễn Quang Duy, 8-2012, “Hoa K ỳ Đồng Minh Việt Nam”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét